Hạ canxi máu gây những biến chứng nguy hiểm

Hạ canxi máu là tình trạng nồng độ canxi máu trong cơ thể thiếu hụt do bị thấp một cách bất thường. Nếu hiện tượng hạ canxi máu không được phát hiển và bổ sung canxi có thể gây nhiều biến chứng.

Canxi có vai trò quan trọng đối với cơ thể. Nó không chỉ là điều cần thiết cho sức khỏe và sự phát triển của xương, mà nó còn có một vai trò quan trọng trong việc dẫn truyền tín hiệu thần kinh lên não, chức năng tế bào và sự co cơ. Hạ canxi máu có thể gây những biến chứng nguy hiểm cho cơ thể nên cần được phát hiện và can thiệp kịp thời.

Hạ canxi máu gây những biến chứng nguy hiểm


Nguyên nhân gây hạ canxi máu

Hạ canxi máu là khi nồng độ canxi huyết thanh toàn phần dưới 8,8mg/dl (2,20mmol/l) trong điều kiện protein huyết thanh bình thường hoặc canxi ion hóa dưới 4,7mg/dl (1,17mmol/l). Có nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó chủ yếu là: suy tuyến cận giáp, albumin máu thấp, thiếu hụt magiê, vitamin D hoặc khẩu phần canxi… Hạ canxi máu cũng có thể do nghiện rượu và các biến chứng của nó như viêm tụy, suy thận, suy gan, suy dinh dưỡng…


Biểu hiện khi bị hạ canxi máu

Người hạ canxi máu có thể không biểu hiện triệu chứng, đặc biệt ở giai đoạn đầu, nhưng các triệu chứng cũng có thể xuất hiện rầm rộ và ngày một nặng hơn. Các biểu hiện lâm sàng của hạ canxi máu là do rối loạn điện thế màng tế bào, gây kích thích hệ thần kinh – cơ. Dấu hiệu hay gặp là tình trạng co cứng cơ (chuột rút) ở vùng lưng và chân.

Những trường hợp hạ canxi máu diễn biến từ từ, âm ỉ có thể gây các dấu hiệu thần kinh nhẹ như trầm cảm, lú lẫn hay kích thích tâm thần. Phù gai thị và đục thể thủy tinh có thể xuất hiện khi bị hạ canxi máu kéo dài. Ngoài ra, người bị hạ canxi máu còn có các triệu chứng như: rối loạn nhịp tim (nhịp tim không đều), tăng phản xạ gân xương và cảm giác nóng hoặc ngứa ran (cảm giác ghim và kim châm) ở bàn tay và bàn chân.

Ở trẻ sơ sinh, nếu bị hạ canxi máu sẽ có các biểu hiện: trẻ khó bú, khó ăn, trẻ bị kích thích vật vã, có khi ngủ gà hoặc chậm chạp, biếng ăn, tăng phản xạ gân xương, co rút cơ, trẻ bị co giật và run, có trẻ có thể thấy mê mệt, dễ cáu kỉnh. Tuy nhiên, các triệu chứng này cũng giống với triệu chứng của một số bệnh khác, do đó, khi trẻ có các triệu chứng này, điều quan trọng là phải đưa trẻ đi khám bác sĩ mới chẩn đoán đúng bệnh.

Các triệu chứng báo hiệu tình trạng hạ canxi máu nghiêm trọng: Khi thấy các trường hợp hạ canxi máu có biểu hiện nghiêm trọng như: co giật hoặc động kinh, khó ăn hoặc biếng ăn ở trẻ sơ sinh, co thắt cơ, thì cần được đưa đi cấp cứu ngay lập tức.


Các biến chứng của hạ canxi máu là gì?

Hạ canxi máu không được điều trị có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển và sức khỏe của trẻ nhỏ: trẻ chậm lớn, chức năng vận động chậm phát triển, não bị tổn thương, trẻ có thể bị suy dinh dưỡng, bị nhuyễn xương, xương mềm, yếu do thiếu vitamin D trong quá trình tạo xương. Ở người lớn và trẻ em có thể bị các biến chứng: loãng xương; kém phát triển, dễ xảy ra cơn tetani do hoạt động thần kinh quá mức.

Cơn tetani xuất hiện do hạ canxi máu nặng nhưng cũng có thể gặp trong trường hợp chỉ hạ canxi ion hóa trong khi canxi toàn phần bình thường, ví dụ như trong tình trạng kiềm hóa máu. Biểu hiện của cơn tetani là các triệu chứng cảm giác như dị cảm ở đầu chi, môi, lưỡi, bàn cổ chân, đau cơ lan tỏa, co cứng cơ vùng mặt, tay, chân.


Điều trị thế nào?

Hạ canxi máu cần được điều trị bằng truyền canxi tĩnh mạch để khôi phục và bổ sung lượng canxi thiếu hụt trong cơ thể. Ngoài đường truyền tĩnh mạch, canxi cũng có thể được bổ sung qua đường tiêm tĩnh mạch hoặc đường uống. Nếu hạ canxi máu thứ phát do các bệnh lý khác thì cần kết hợp điều trị dứt điểm bệnh lý đó.

Để phòng bệnh hạ canxi máu cần đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện bệnh. Ăn uống đủ dinh dưỡng nhất là thức ăn chứa nhiều canxi. Tăng cường vận động ngoài trời, với trẻ em cần tắm nắng hàng ngày để bổ sung lượng vitamin D cần thiết và tăng cường hấp thu canxi cho cơ thể.

( thuocthang )


Nguyên tắc điều trị

Điều trị hạ canxi máu được bắt đầu bằng dùng canxi. Việc chọn lựa các dạng chế phẩm chứa canxi cũng như cân nhắc sự cần thiết điều trị bằng các thuốc hỗ trợ hay không tùy thuộc vào mức độ của hạ canxi máu cũng như các bệnh lý nguyên nhân.

Những bệnh nhân hạ canxi máu có triệu chứng lâm sàng hoặc những bệnh nhân có nồng độ canxi máu điều chỉnh thấp hơn 1,90 mmol/l (75 mg/l) có thể được điều trị bằng canxi đường tĩnh mạch cho đến khi hết triệu chứng hoặc khi nồng độ Ca máu lên trên 1,90 mmol/l. Hạ canxi máu mạn tính mức độ trung bình thường được điều trị bằng bù Ca đường uống. Vì canxi liên kết với phosphate trong thức ăn và với oxalate để hình thành các dạng muối không hòa tan và không thể hấp thu được qua đường tiêu hóa cho nên Ca uống được hấp thu hiệu quả nhất khi dùng xa bữa ăn. Hiện tại chưa có chế phẩm PTH trên thị trường.

Điều trị hạ canxi máu cấp tính

Hạ canxi máu cấp tính thường gây nên các biểu hiện lâm sàng. Bệnh nhân có nồng độ canxi huyết tương dưới 1,9 mmol/l cần được điều trị bằng canxi tĩnh mạch. Truyền 15 mg/kg (0,375 mmol/kg) canxi nguyên tố trong vòng 4 đến 6 giờ có thể làm tăng nồng độ canxi máu toàn phần lên 0,5 đến 0,75 mmol/l (20 đến 30 mg/l).

Nhiều dạng canxi truyền tĩnh mạch khác nhau hiện có trên thị trường.

Gluconate de calcium 10% trình bày dưới dạng ống 10 ml chứa 94 mg canxi nguyên tố. Trong trường hợp cấp cứu, có thể dùng nguyên ống bơm tĩnh mạch chậm trong 4 phút, sau đó truyền tĩnh mạch liên tục. Không nên dùng chế phẩm dịch truyền nồng độ cao (200 mg Ca trong 100 ml) vì có nguy cơ gây ảnh hưởng chức năng tĩnh mạch và hoại tử trong trường hợp dịch truyền thoát mạch ra tổ chức dưới da. Thông thường người ta hòa 10 ống gluconate de calcium trong 900 ml dung dịch glucose 5% để đạt được một dung dịch chứa 940 mg canxi nguyên tố/lít và dung dịch này có thể truyền tốc độ 50 ml/giờ khi mới bắt đầu và sau đó điều chỉnh tốc độ cho phù hợp. Đôi khi trong trường hợp cần thiết, dung dịch này được duy trì trong 4 đến 6 giờ.

Glucoheptate de calcium 10% chứa 90 mg canxi nguyên tố trong 5 ml dung dịch có thể hữu ích ở những bệnh nhân cần hạn chế dịch đưa vào.

Clorure de calcium 10% có nồng độ còn cao hơn nữa (272 mg canxi nguyên tố trong 10 ml !!!) có thể làm tăng nhanh chóng nồng độ canxi máu. Tuy nhiên chế phẩm này rất độc với tĩnh mạch cho nên không được truyền tĩnh mạch kéo dài.

Globionate de calcium sẵn có ở dạng uống chứa 23 mg canxi nguyên tố trong 1 ml. Chế phẩm này được hấp thu và dung nạp rất tốt, là một chọn lựa thích hợp cho trẻ em hoặc người lớn không có đường truyền tĩnh mạch.

Một số bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân thẩm phân máu có tình trạng hạ canxi máu nặng sau cắt bỏ bán phần hoặc toàn phần tuyến cận giáp cần được tiêm cấp cứu canxi và vitamin D. Ban đầu, canxi thường được cho bằng đường tĩnh mạch sau đó tiếp tục với dạng uống kèm với vitamine D. Liều cao vitamine D đường tĩnh mạch thường được sử dụng: 1 đến 3 μg/ngày và giảm dần liều trong các tuần tiếp theo. Việc cho calcitriol và Ca trước khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp có thể phòng ngừa được tình trạng hạ Ca máu trầm trọng và giảm thiểu phản ứng dội tăng PTH vào giai đoạn sớm trong trường hợp cắt bỏ bán phần tuyến cận giáp.

Điều trị hạ canxi máu mạn tính

Điều trị hạ canxi máu mạn tính thường dựa trên cung cấp Ca đường uống và thường dùng kèm với vitamine D để tăng cao sự hấp thu qua đường tiêu hóa. Thông thường dùng một liều đầu tiên 1000 đến 2600 mg Ca (250 đến 650 mmol) chia thành 2–3 lần thậm chí đến 4 lần uống vào khoảng giữa các bữa ăn để tăng hấp thu. Các liều tiếp theo sau đó được điều chỉnh tùy theo nồng độ Ca máu mong muốn đạt được. Dạng thường dùng là carbonate de calcium, trình bày dưới dạng viên 500 đến 750 mg. Citrate de calcium cũng được hấp thu rất tốt nhưng nó lại làm tăng hấp thu nhôm qua đường tiêu hóa và có thể gây nguy cơ ngộ độc nhôm đặc biệt là ở bệnh nhân suy thận. Nên tránh dùng chế phẩm phosphate de calcium vì nó làm tăng phosphate máu cũng như tăng lắng đọng Ca ở di căn xương.

Trong trường hợp thiếu vitamine D, thường cần phải bổ sung hormone này. Calcitriol đường uống có tác dụng tức thì vì nó không cần phải chuyển hóa mới có tác dụng sinh lý. Một liều 0,5 đến 1 μg thường là đủ (ngoại trừ trường hợp hạ Ca máu sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp, trong trường hợp này thì liều calcitriol cần tăng cao hơn nhiều). Dạng hoạt tính của vitamine D, tức là calcitriol, thường tốt hơn dạng tiền chất. Dạng tiền chất thường cần được chuyển đổi bởi quá trình 25-hydroxyl hóa ở gan hoặc 1α- hydroxyl hóa tại thận trong khi đó các quá trình này bị ảnh hưởng trong suy gan hoặc suy thận, trong thiểu năng tuyến cận giáp và còi xương phụ thuộc vitamine D type 1. Hơn nữa thời gian bán hủy ngắn của calcitriol có thể giảm nguy cơ ngộ độc vitamine D và nguy cơ tăng Ca máu thường kéo dài đối với các dẫn xuất chứa một nhóm hydroxyl.

( Wiki )